Thứ Tư, 18 tháng 5, 2011

Ngân hàng Phát triển Việt Nam VDB đóng góp tích cực cho phát triển kinh tế- xã hội


Nhân 5 năm thành lập Ngân hàng Phát triển Việt Nam (theo Quyết định số 108/2006/QĐ-TTg ngày 19/5/2006 của Thủ tướng), xin giới thiệu bài viết của Tổng Giám đốc Nguyễn Quang Dũng về những đóng góp tích cực của ngân hàng này vào quá trình đổi mới cơ chế tài chính-tín dụng và chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa.

5 năm phát triển và hoàn thiện

Xây dựng thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là đường lối nhất quán của Đảng và Nhà nước ta. Đường lối đó được cụ thể hoá qua các chương trình, kế hoạch, biện pháp phát triển toàn diện nền kinh tế và qua việc sử dụng hợp lý, đồng bộ các công cụ tài chính – tín dụng. Trong đó, việc thành lập và phát huy vai trò của NHPT – một ngân hàng chính sách của Chính phủ đã thể hiện sự kết hợp tốt giữa tôn trọng các quy luật khách quan của kinh tế thị trường với chức năng của Nhà nước trong định hướng vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội và tăng trưởng bền vững.

Tổng Giám đốc Ngân hàng Phát triển Việt Nam Nguyễn Quang Dũng

Trong khi các ngân hàng thương mại nhà nước xúc tiến cổ phần hoá để thích ứng cơ chế thị trường và các ngân hàng thương mại cổ phần thuộc các thành phần kinh tế khác coi trọng hiệu quả kinh doanh là chủ yếu, thì những hoạt động hướng vào các dự án đầu tư lớn, chậm thu hồi vốn, lợi nhuận không cao (như cho vay phát triển kỹ thuật hạ tầng kinh tế – xã hội, hỗ trợ xuất khẩu, phát triển nông lâm nghiệp và hỗ trợ các dự án đầu tư góp phần xoá đói, giảm nghèo ở miền núi, vùng sâu, vùng xa …) là vinh dự và trọng trách của NHPT Việt Nam.

NHPT chính thức hoạt động từ 1/7/2006 trên cơ sở tiếp nhận tổ chức và lực lượng từ Quỹ Hỗ trợ Phát triển (HTPT). Trong điều kiện khả năng tích lũy của ngân sách nhà nước cho đầu tư phát triển có hạn, để phù hợp với điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế, cùng với các chính sách thu hút đầu tư, Chính phủ đã có thêm công cụ khai thác nguồn vốn trong xã hội để hỗ trợ phát triển các ngành, các vùng, các sản phẩm trọng điểm, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy xuất khẩu và khai thác những tiềm năng to lớn của đất nước cho sự nghiệp CNH, HĐH.

Đến nay, sau 5 năm hoạt động, NHPT đã từng bước phát huy vai trò của một Ngân hàng chính sách của Chính phủ, góp phần quan trọng huy động thêm các nguồn lực trong và ngoài nước, hỗ trợ đầu tư phát triển kinh tế và xuất khẩu.

Quy mô hoạt động của NHPT tăng trưởng nhanh, có thị phần đáng kể và có tổng tài sản thuộc nhóm hàng đầu trong các ngân hàng lớn ở nước ta. Các lĩnh vực nghiệp vụ của NHPT từng bước được hoàn thiện, tạo dựng được uy tín trong nước và quốc tế, trình độ đội ngũ cán bộ không ngừng được nâng cao, cơ sở vật chất kỹ thuật từng bước được củng cố.

Bên cạnh các nhiệm vụ chủ yếu theo Quyết định thành lập, trong các năm qua, NHPT còn được Thủ tướng tin cậy giao thêm một số nhiệm vụ như: cấp phát vốn dự án nhà máy Thủy điện Sơn La, cho vay vốn nhà máy Lọc dầu Dung Quất, đầu tư xây dựng đường ô-tô cao tốc Hà Nội – Hải Phòng; cho vay vốn thực hiện các dự án theo Hiệp định của Chính phủ với Lào, Campuchia… Thủ tướng cũng chính thức giao NHPT chức năng bảo lãnh cho doanh nghiệp vay vốn ngân hàng thương mại và thực hiện một số nhiệm vụ trong các gói giải pháp chống suy giảm kinh tế, bảo đảm an sinh xã hội…

Tính chung, tổng số vốn NHPT đã giải ngân cho các dự án đầu tư trong giai đoạn 2006-2010 là 83 nghìn tỷ đồng, dư nợ VND đến 31/12/2010 khoảng 90 nghìn tỷ đồng, tăng hơn hai lần so với thời điểm đi vào hoạt động (01/7/2006), đạt tốc độ tăng trưởng bình quân 20%/năm và chiếm khoảng 3% tổng vốn đầu tư toàn xã hội.

Tính đến nay, NHPT đang quản lý 2.445 dự án với tổng số vay theo hợp đồng tín dụng là 168.846 tỷ đồng, trong đó có 106 dự án nhóm A với số vốn vay là 73.583 tỷ đồng.

Quan trọng hơn, tín dụng đầu tư của Nhà nước đã tập trung vào lĩnh vực công nghiệp, xây dựng, phục vụ chủ trương, đường lối công nghiệp hóa, hiện đại hóa của đất nước với tỷ lệ bình quân hàng năm trên 78%, luôn cao hơn mức trung bình toàn xã hội đầu tư vào lĩnh vực này. Trong đó nổi bật là các dự án, công trình Thủy điện Sơn La, nhà máy Lọc dầu Dung Quất, nhà máy Đạm Cà Mau, các dự án sản xuất phân bón DAP ở Hải Phòng, ở Lào Cai, các dự án sản xuất thép, cơ khí trọng điểm, tàu biển, đường ô-tô cao tốc Hà Nội – Hải Phòng …

DOANH SỐ VÀ DƯ NỢ CHO VAY TÍN DỤNG ĐẦU TƯ 

Đơn vị: tỷ đồng

Chỉ tiêu 2006 2007 2008 2009 2010
Cho vay tín dụng đầu tư 9.870 21.877 18.600 21.686 24.295
Dư nợ VND* 46.351 60.166 63.171 72.686 87.308

* Chưa bao gồm dư nợ các chương trình của Chính phủ như cho vay dự án Lọc dầu Dung Quất, cho vay dự án đường ô tô cao tốc Hà Nội – Hải Phòng…

Bên cạnh đó, nguồn vốn tín dụng đầu tư của Nhà nước qua NHPT cũng được đầu tư cho các chương trình kinh tế của Chính phủ như Chương trình kiên cố hóa kênh mương, Chương trình tôn nền vượt lũ đồng bằng Sông Cửu Long, Chương trình trồng và chăm sóc 5 triệu ha rừng, trồng rừng nguyên liệu và cây công nghiệp dài ngày, cây ăn quả, chăn nuôi, nuôi trồng thuỷ sản và chế biến nông, lâm, thuỷ hải sản…góp phần thực hiện an sinh xã hội, nông thôn, nông dân với số vốn đầu tư hàng chục nghìn tỷ đồng. Các dự án an sinh xã hội khác như trường học, bệnh viện, xử lý rác thải, cấp nước sạch…cũng được đầu tư hàng nghìn tỷ đồng bằng nguồn vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước qua NHPT.

Ngân hàng Phát triển Việt Nam

Trong 5 năm qua, NHPT luôn nỗ lực hoàn thành kế hoạch tín dụng xuất khẩu hàng năm do Thủ tướng Chính phủ giao, đặc biệt từ năm 2009 đến nay, NHPT luôn hoàn thành vượt so với chỉ tiêu dư nợ bình quân Thủ tướng Chính phủ giao. Thị trường xuất khẩu được tài trợ bằng vốn tín dụng xuất khẩu của nhà nước qua NHPT được mở rộng ra từ gần 50 nước ra trên 120 nước. Với doanh số cho vay gần 5 tỷ USD trong các năm qua, hoạt động tín dụng xuất khẩu đã giúp các doanh nghiệp giảm chi phí đầu vào, tăng khả năng cạnh tranh, tranh thủ thời cơ mở rộng và đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu hàng hóa Việt Nam trên thị trường quốc tế, tạo điều kiện giúp các doanh nghiệp giữ vững thị trường truyền thống, khai thác các thị trường mới và tiềm năng.

Đồng thời, thông qua các hình thức hỗ trợ gián tiếp (như bảo lãnh tín dụng, hỗ trợ lãi suất…), NHPT đã tạo điều kiện cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ, các hợp tác xã, các chủ đầu tư tiếp cận được các nguồn vốn của ngân hàng thương mại, góp phần đẩy mạnh huy động các nguồn lực xã hội cho đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh.

DOANH SỐ VÀ DƯ NỢ CHO VAY TÍN DỤNG XUẤT KHẨU 

Đơn vị: tỷ đồng

Chỉ tiêu 2006 2007 2008 2009 2010
Doanh số cho vay 8.200 9.500 27.275 32.446 20.211
Dư nợ đến 31/12/2010 3.000 5.600 13.336 17.355 16.105

Thực hiện chức năng quản lý các nguồn vốn ODA cho vay lại, các quỹ quay vòng, NHPT đang quản lý cho vay lại đối với 412 dự án với tổng số vốn tương đương 9,5 tỷ USD. Các nguồn vốn nước ngoài đã được quản lý đúng quy định, đảm bảo an toàn, góp phần nâng cao uy tín của Việt Nam đối với các nhà tài trợ quốc tế. Nhờ đó, NHPT đã được các tổ chức tài chính quốc tế (WB, AFD, Chính phủ Phần Lan…) tiếp tục giao quản lý các chương trình cấp nước từ khâu thẩm định, quyết định cho vay, kiểm soát chi, thu nợ… Chính phủ Nhật Bản, thông qua tổ chức JICA đã thống nhất với Chính phủ Việt Nam giao cho NHPT trực tiếp triển khai Chương trình cho vay bảo toàn và tiết kiệm năng lượng, Ngân hàng Tái thiết Đức (KFW) đang tích cực làm việc với NHPT để triển khai Chương trình xử lý nước thải khu công nghiệp cũng như Chương trình bảo vệ môi trường và vùng khí hậu…

DOANH SỐ VÀ DƯ NỢ CHO VAY LẠI VỐN ODA 

Đơn vị: tỷ đồng

Chỉ tiêu 2006 2007 2008 2009 2010
Cho vay 4.850 8.729 7.802 8.069 10.021
Dư nợ 44.761 50.607 54.622 55.114 61.392

Tổng tài sản của NHPT đến 31/12/2010 đã tăng gấp gần 2,5 lần so với thời điểm nhận bàn giao từ Quỹ Hỗ trợ phát triển (01/7/2006). Trong 5 năm, đã huy động thêm tổng số vốn gần 180 nghìn tỷ đồng, bằng 9,6% tổng vốn đầu tư toàn xã hội cùng kỳ. Trong đó, vốn  phát hành trái phiếu Chính phủ (TPCP) với thời hạn 2 năm, 3 năm, 5 năm, 7 năm, 10 năm và 15 năm là nguồn vốn lớn để NHPT đầu tư cho các dự án dài hạn và có vai trò quan trọng, chiếm tỷ trọng lớn trong tổng giá trị niêm yết trên thị trường chứng khoán, góp phần đa dạng hóa các công cụ nợ, gia tăng sự tích tụ tài chính, thúc đẩy sự phát triển của thị trường vốn, đặc biệt là vốn dài hạn. Trên cơ sở bảo toàn và không ngừng phát triển vốn, đến nay, nguồn vốn chủ sở hữu của NHPT đến 31/12/2010 tăng 90%, tức là bằng 190% so với thời điểm nhận bàn giao từ Quỹ HTPT.

SỐ VỐN HUY ĐỘNG QUA CÁC NĂM 

Đơn vị: tỷ đồng

Chỉ tiêu 2006 2007 2008 2009 2010
Doanh số huy động mới 30.929 36.369 40.382 29.000 48.370
Phát hành trái phiếu CP 10.050 24.095 26.647 5.866 35.457
Tỷ lệ trái phiếu/vốn huy động 33% 66,3% 66% 21% 73%

Triển khai Nghị quyết số 30a/2008/NQ-CP ngày 27/12/2008 của Chính phủ, NHPT đã tích cực triển khai nhiệm vụ giúp đỡ ba huyện nghèo của tỉnh Lào Cai là: Si ma cai, Mường Khương, Bắc Hà theo phương thức chủ yếu hỗ trợ góp phần giảm nghèo bền vững thông qua việc hỗ trợ đầu tư các dự án, khai thác tiềm năng, lao động tại địa phương.

Tiếp tục phát triển và từng bước hoàn thiện

Theo ý kiến các doanh nghiệp, doanh nhân, quy mô tín dụng của NHPT vẫn còn có hạn, chưa đủ đáp ứng yêu cầu về vốn để hỗ trợ tăng trưởng kinh tế, đẩy mạnh xuất khẩu và góp phần giải quyết các vấn đề xã hội.

Hoạt động, năng lực quản trị của NHPT chưa theo kịp yêu cầu của giai đoạn phát triển mới, năng lực nghiên cứu, dự báo còn hạn chế, tính chuyên nghiệp của đội ngũ cán bộ chưa cao…Năng lực tài chính của NHPT còn chưa đủ mạnh, tích lũy và dự phòng rủi ro thấp, do vậy hạn chế khả năng xử lý nợ xấu và dễ bị ảnh hưởng từ các diễn biến bất thường của thị trường…

Nhìn nhận khách quan và nghiêm túc những mặt được và chưa được nêu trên, có thể nói: NHPT đã góp phần tích cực thực hiện các chương trình, dự án ưu tiên và các dự án khai thác tiềm năng các vùng khó khăn, đặc biệt khó khăn để thúc đẩy tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Tuy quy mô hỗ trợ cho đầu tư, hỗ trợ xuất khẩu còn chưa tương xứng vớiyêu cầu phát triển kinh tế đất nước, nhưng thành công bước đầu không chỉ dừng lại ở những con số, mà còn ở những đóng góp sâu sắc hơn trong việc phục vụ những chủ trương, chính sách của Đảng, Chính phủ trong tiến trình đổi mới thể chế kinh tế.

Hoạt động của NHPT năm 2011 và các năm tiếp theo phải có bước chuyển biến mạnh mẽ, phấn đấu từng bước vươn tới mục tiêu trở thành ngân hàng hiện đại, hoạt động “An toàn, hiệu quả, hội nhập và phát triển bền vững“, phát huy vai trò công cụ tài chính – tín dụng đắc lực của Chính phủ để thực hiện chính sách TDĐT, TDXK của Nhà nước.

Để đóng góp nhiều hơn vì mục tiêu phát triển nhanh và bền vững của đất nước, NHPT cần đa dạng hoá các hình thức huy động vốn, khai thác được các nguồn vốn trong nước và nước ngoài với quy mô lớn hơn để đáp ứng yêu cầu đầu tư theo đúng chủ trương của Chính phủ và nhiệm vụ kế hoạch được Thủ tướng Chính phủ giao. Cần nâng cao năng lực dự báo, thẩm định dự án đầu tư, phương án sản xuất kinh doanh của chủ đầu tư và doanh nghiệp để quyết định cho vay đúng, an toàn, hiệu quả; hướng trọng tâm đầu tư theo các chương trình của Chính phủ, lấy hiệu quả chung của cả chương trình, hiệu quả kinh tế – xã hội làm thước đo tiêu chuẩn để đầu tư… Đồng thời NHPT cũng phải tiến tới tự chủ, tự chịu trách nhiệm về hiệu quả TDĐT, TDXK; phấn đấu từng bước tự bù đắp chi phí hoạt động; tạo lập tích luỹ và dự phòng rủi ro trên cơ sở cải thiện một bước cơ bản tình hình tài chính của mình.

Giai đoạn 2011-2015 sẽ là giai đoạn có ý nghĩa hết sức quan trọng, vừa đưa Nghị quyết Đại hội lần thứ XI của Đảng vào thực tiễn, vừa là 5 năm đầu thực hiện Chiến lược phát triển 2011-2020 đưa nước ta trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Trong công cuộc phát triển chung lớn lao đó, NHPT phải xứng đáng là công cụ đắc lực của Chính phủ trong hỗ trợ đầu tư phát triển kinh tế – xã hội với trình độ chuyên nghiệp cao và hiện đại, hội nhập sâu rộng hơn với thị trường quốc tế. Bởi vậy, cần thật sự tự chủ tài chính, tự trang trải toàn bộ chi phí quản lý, có tích luỹ và dự phòng vững chắc.

Là công cụ của Chính phủ thực hiện chính sách tín dụng đầu tư, tín dụng xuất khẩu của Nhà nước, về bản chất, NHPT phải hoạt động theo chuẩn mực của một ngân hàng, phải là một ngân hàng hoạt động an toàn, tăng trưởng bền vững trên cơ sở cân đối vững chắc nguồn – sử dụng vốn, cân đối tài chính thì mới làm tốt được vai trò công cụ.

Các dự án an sinh xã hội như cấp nước sạch cũng được đầu tư hàng nghìn tỷ đồng bằng nguồn vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước qua NHPT

Như vậy, cần khẳng định vị trí pháp lý của NHPT với 100% vốn Nhà nước, vừa là công cụ của Chính phủ, vừa là một ngân hàng trong hệ thống các tổ chức tài chính – tín dụng nước ta.

Đồng thời, cần hoàn thiện hệ thống các cơ chế, chính sách để vừa tăng cường quản lý của Nhà nước, vừa tạo sự chủ động trong hoạt động độc lập để tổ chức triển khai thực hiện nhiệm vụ Chính phủ giao, xây dựng NHPT xứng đáng là công cụ mạnh của Chính phủ trong việc triển khai những chương trình phát triển kinh tế – xã hội, có ý nghĩa chiến lược do Chính phủ hoạch định, chỉ đạo và tổ chức thực hiện. Bởi vậy, phát huy vai trò của NHPT Việt Nam còn có ý nghĩa lý luận và thực tiễn quan trọng trong quá trình xây dựng thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta, nhất là xét trên khía cạnh vừa tôn trọng, vận dụng những quy luật khách quan của cơ chế thị trường, vừa thực hiện tối ưu vai trò hướng dẫn, quản lý, tác động và điều tiết của Nhà nước.

Dưới chỉ đạo của Chính phủ, sự hỗ trợ của các bộ, ngành, địa phương, sự hợp tác của các ngân hàng thương mại và các doanh nghiệp, NHPT sẽ tiếp tục nâng cao vai trò của mình trong đầu tư phát triển kinh tế và an sinh xã hội, hoàn thành tốt nhiệm vụ được Chính phủ giao trong chặng đường phát triển mới./.


(Theo www.nguyentandung.org)

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét